Sự tích Vua Cha Bát Hải đứng đầu trên Tam tòa Thánh Mẫu

Mục lục bài viết

Trong thống thần linh Tứ phủ, Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình là vị vua đứng hàng trên Tam tòa Thánh Mẫu. Vậy vua cha bát hải là ai? Hãy cùng tìm hiểu sự tích về Đức vua Cha Bát Hải.

Đức Vua Cha Bát Hải hay còn được gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình, là vị vua đứng đầu Thủy phủ, hành dinh của Ngài ở Động Đinh Hồ, là một vùng đất ven biển Đông nước ta, không phải Động Đình Hồ thuộc Trung Quốc.

Có truyền thuyết cho rằng Ngài là cha của Thánh mẫu Xích Lân Long Nữ, là nhạc phụ của Kinh Dương Vương (Kinh Xuyên), thủy tổ của Bách Việt. Trong lịch sử thời kỳ đầu Văn Lang, dân tộc Lạc Việt khi ấy còn theo chế độ Mẫu hệ (tức là coi trọng người mẹ- người phụ nữ trong nhà), Và vì vậy mà theo suy đoán của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử thì khi nói đến vua cha ở đấy chính là lời mà Kinh Dương Vương gọi bố vợ – tức Long Vương cai quản Động Đình Hồ.

Sự tích về Đức Vua Cha Bát Hải
Sự tích về Đức Vua Cha Bát Hải

Sự tích về Đức Vua Cha Bát Hải

Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ ở đâu?

Vào thời vua Hùng thứ 18, có cặp vợ chồng quê vùng Thụy Anh- Thái Bình tình cờ nhặt được một bé gái bên bờ sông. Họ mang về nuôi nấng, đặt tên là Qúy Nương. Năm Quý Nương tròn 18, khi ra bờ sông tắm gội, cô chợt nhìn thấy một con Hoàng Long toàn thân vàng rực, mình dài 8 trượng xuất hiện từ đợt thủy triều lớn. Nó quấn lấy bà, sau đó bà thụ thai. Đúng 13 tháng sau, ngày mùng 10 tháng giêng thì sinh ra một bọc lấp lánh. Bà hoảng sợ và vứt bọc trứng xuống sông. Đêm hôm ấy, có người ngư phủ kéo lưới trùng hợp thế nào đã vớt được bọc ấy. Ông tò mò mở ra xem, từ trong bọc bò ra 3 con Hoàng Xà, đầu rồng mình rắn, vảy sáng ánh kim.

Một con bò xuống giếng nước, 2 con còn lại bơi dọc ra dòng Vĩnh Giang. Sau đó, trời bỗng lóe sáng cả vùng, sấm chớp vang dội, không trung rung chuyển, cất tiếng nói: – “Ta là con của vua cha Lạc Long Quân, sau này sẽ giúp vua Hùng diệt giặc!”.

Sáng hôm sau, dân làng biết được thần linh đã giáng ngữ, họ lập miếu phụng thờ.

Lại nói, khi ấy triều chính đang rối ren, Thục Vương tức giận vì không được Vua Hùng gả Mỵ Nương mà lại chọn Sơn Tinh làm rể, hắn rất đỗi tức giận, một mực nhăm nhe bờ cõi nước ta. Vài năm sau đó, Vua Hùng già yếu lại không có con trai kế vị, các nước Ai Lao, Vạn Tượng, Chiêm Thành phối hợp cùng phương Bắc muốn thôn tính Lạc Việt. Chúng điều quân bao vây 8 cửa biển nước ra. Sơn Tinh được Vua Hùng gọi đến giúp nhưng phong thái ung dung, không mảy may lo lắng. Hắn bảo rằng xưa nay nước Lạc Việt có mười bảy đời vua Hùng đều là bậc minh quân vì vậy lần này Trời đã phái người tài đến hộ quốc cứu dân. Hắn nói: “Họ có ba người, chính là Long Cung Hoàng Thái Tử thác sinh, văn võ song toàn, khí phách hơn người, Trời lại phái thêm nhân tài hạ phàm cùng với chư vị Sơn Thủy Bách Thần linh thiêng. Ngài cứ giao cho Long Cung Hoàng Thái Tử trấn giữ vùng giang môn yếu hải còn thần sẽ trị vùng bộ chiến, yên tâm rằng vài hôm là giặc sẽ tan”.

Nghe vậy, Vua Hùng lập đàn cầu trời, tức thì Thanh Y Tiên Ông vân du bay đến báo rằng người tài ấy hiện đang ở Hoa Đào Trang. Sứ thần đến vùng này, ngay lập tức nghe tin dân làng mách và tiến đến cái Giếng thần. Tức thì, Hoàng Xà nổi lên phát sáng cả vùng trời, toàn thân tỏa kim quang chói lóa, hóa thân thành nam nhân cao to lực lưỡng, khôi ngô, tuấn tú, phi phàm. Ngài báo với sứ giả sẽ triệu lệnh hai em trở về, tuyển mười tướng tài, chiêu binh trong mười ngày rồi sẽ lĩnh quân đi đánh tan giặc biển Nam, nhất định trong ba ngày sẽ xong chiến sự. Kể từ đó dân nhớ ơn gọi Ngài là Vĩnh Công.

Sau khi chiêu đủ 10 tướng, Ngài xuất quân lên đường. Hai hướng trị giặc là cửa sông Cái và sông Bạch Đằng, Vĩnh Công và Quan Lớn Đệ Nhất sẽ chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan Lớn Đệ Tam cùng Quan Lớn Đệ Ngũ và Quân Sư Nuồi sẽ ứng chiến ở Bạch Đằng Giang, Quan Điều

Thất lo tác chiến ở sáu cửa biển còn lại. Đúng ba ngày, Vĩnh Công đánh giặc không còn manh giáp. Trở về Kinh Đô, vua Hùng sắc phong là: “Vĩnh Công Nhạc Phủ Thượng Đẳng Thần”. Vĩnh Công xin vua cho lui về quê nhà chăm sóc thân mẫu Quý Nương, chiêu dân lập ấp, dạy dân mọi sự và chăm lo tám cửa bể. Mười vị tướng cũng theo ông về, riêng Quan Điều Thất thì về Trời ngay khi đánh giặc xong, Vĩnh Công cho lập bàn thờ ông tại Dinh Công Đồng. Các hàng Quan đều nhậm chức tại cái thủy khu, Quan Lớn Đệ Tam ngự tại cửa sông Cái đến phía Bắc Lạc Việt, Quan Lớn Đệ Thập ở tại Cửu Chân, Quan Lớn Đệ Tứ đi khai khẩn vùng Bắc Sơn Nam, năm vị Nội Tướng thì ở lại Hoa Đào Trang chăm dân. Vĩnh Công dùng bổng lộc vua ban mà phân phát cho dân bản hạt, miền duyên hải từ đó mà ấm no sung túc. Hằng năm đúng ngày lúc xưa đánh thắng giặc, Ngài sẽ cùng chư tướng tề tựu tại Hoa Đào Trang.

Vài ngày sau, Ngài mách với dân làng: “Nay ta đến hạn phải về chầu vua cha Lạc Long, nếu muôn dân nhớ đến ta thì nhà ta đây là miếu sở, ngày ta đi là ngày giỗ”.

Sau đó, trời tối sầm lại, mây mưa ồ ạt, sấm chớp chói trời, thoáng chốc chỉ còn lại bộ xiêm y của Ngài để lại.  Ngày mai mươi lăm tháng tám năm Bính Dần là ngày ông hồi quy, dân tấu lên, vua Hùng ban phong: “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Đại Vương”.

Theo truyền thuyết, khi Hùng Vương thứ mười tám cáo chung và Thục Phán lên ngôi, dân Bách Việt ta dĩ nhiên là ngoại tộc, Vĩnh Công lúc này đã đã hóa thần và luôn linh ứng phù hô bảo hộ dân ta, trăm dân nhớ ơn gọi là Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Tham khảo: Sự tích Ông Địa và tục thờ Ông Địa Thần Tài trong dân gian

Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình được thờ ở đâu?

Hiện nay, Ngài được thờ tại khu Quần thể du lịch Tâm Linh Phủ Dầy, Phủ Vân Cát – Phủ Dầy và một số địa phương khác,.. Nhưng đền thờ chính được đặt tại Khu du lịch tâm linh Đền Đồng Bằng. Ngôi đền nằm trên địa phận giáp ranh giữa xã An Quý và xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền còn lưu giữ bức đại tự của vua Lê Thánh Tông ban tặng: “Đế Đức Quảng Vận”, nghĩa là “Thay vua điều hành đất nước”. Theo truyền thuyết “…Vĩnh Công lập đàn cầu, trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân…” – đó chính là Quan Điều Thất. Đền Đồng Bằng là ngôi đền rất cổ có đến 4000 năm tuổi.


Xem thêm: